Bài viết về Tiêu – Sáo của Nhật Bổn
Bài sau đây viết về các loại sáo Tiêu
– Nhật bổn , v́ sự
liên đới với các loại sáo của Á Châu.
Loại sáo ngắn 6 lỗ bấm , thường
gọi Kagura – fuye , hoặc
có tên “ Sáo cho âm nhạc của
tâm linh “
Và thường để đệm
cho thể loại múa Shinto shrines. Đàn Koto bây
giờ , xưa thường dùng để chơi các
loại âm nhạc cổ truyền và đệm cho sáo Kagura.
H́nh thể và thang âm của sáo Kagura- fuye
sáo Kagura
sáo Kagura – blue
Sáo Oteki
Koma- blue
2 – Tiêu 7 lỗ Hichiriki , tấu chung với Biwa ( 1 loại nhạc cụ Pipa của Trung Hoa, xuất xứ từ Ân độ ) và Koto
Hichiriki
Âm nhạc Nhật Bổn phần nhiều liên quan đến nhạc đạo của Phật giáo.. Các điệu nhạc về múa của Ân –Độ được biết đến năm 736 Công Nguyên .Một trong những nhạc cụ có từ nguồn gốc của đạo Phật là cây Shakuhachi, mà du nhập từ Ai Cập . Ai Cập cổ xưa với loại Tiêu thẳng gọI là Sebi, dài 4 feet làm bằng thân nhỏ của loại lau sậy , đầu miệng thổi cắt h́nh tam giác xéo , nhạc cụ nầy được t́m thấy trên đường đến Ả- Rập,nơi đây người địa phương có thói quen ngồi xếp để làm khi thổi có thể thổi hướng nghiêng làm ngắn lại chiều dài của ống. Người Ả- Rập gọi tên khác là cây “Nay “. Trong cuộc thám hiểm của Alexander the Great đến vùng hướng Đông ,cây Tiêu được du nhập sang miền Tây Ấn Độ và vùng trung tâm Á Châu , nơi mà loại Tiêu thổi dọc làm bằng tre trúc có lưởi gà (dăm kèn) xuất hiện lần đấu tiên
và loại Tiêu được làm ở Nhật Bổn có h́nh thức giống nhau ,gọi là Shakuhachi . Tại Ấn Độ , loại Tiêu rất được ưa chuộng và phổ biến rộng răi bởi các nhà tu thiền Phật giáo , các vị tăng lữ đă t́m thấy loại Tiêu nầy trên đường du hoằng sang Trung Hoa.Trong khi các nước ở phương Tây th́ Tiêu chỉ có 3 lỗ bấm , th́ tại Ấn Độ số lỗ bấm được tăng lên thành 4-5 ở trên mặt Tiêu phía trước , phía sau mặt Tiêu có 1 lỗ bấm .
-Tại Trung Hoa , số lượng lỗ bấm tăng lên thành 6 lỗ bấm ; gồm 5 lỗ ở mặt trên và 1 lỗ phía sau Tiêu , nhac cụ nầy chơi trong giàn nhạc cho phần nhạc cụ bộ hơi và tấu chung với bộ đàn dây
-Kích thước của cây Tiêu thay đổi ,từ 1 shaku và 8 sun để cho cao độ hợp với hoang – tchoung ( yellow bell), thích hợp cao độ ( fundamental pitch) cơ bản của note nhạc thấp nhất của hợp âm trong thang âm của người Trung Hoa. Tên gọi Shakuhachi (“ Foot-eigth”) tên thay cho kích thước mới thích hợp với người Trung Hoa .Khác với, Tiêu của tăng lữ Trung Hoa , cây Tiêu tại Ấn Độ không thay đổi phong cách ,vẫn giữ nguyên thủy 5 lỗ bấm
-Các loại sáo, Tiêu được t́m thấy tại Nhật Bổn vào khoăng năm 590 Công Nguyên , khi Đông Cung Thái Tử Shotoku Taischi là phật tử thuần thành tuyệt đối. Trong thời đại Nara( periode) , âm nhạc dành cho Tiêu Shakuhachi được phát triển rộng răi , thịnh hành , được chứng minh rằng với số lượng âm nhạc dành cho Tiều Shakuhachi trong thời gian đó được ǵn giữ trong Shosoin , nơi lưu trữ tài liệu cho thời đại Nara . Nhạc cụ tuy được thông dụng vào thời điểm đó nhưng sau đó v́ kích thước quá nhỏ và âm thanh yếu , nên từ từ đă không c̣n được chuộng trong giàn nhạc. Sau đó trở nên thành nhạc cụ tấu riêng rẽ, hoặc được đệm cho 1 nhạc cụ khác độc tấu. Giai đoạn về sau ,cây Tiêu dùng để đệm cho các tăng lữ tụng kinh.Do đó âm nhạc của cây Tiêu Shakuhachi qua nhiều thay đổi ,từ dùng để tấu cho các tăng lữ tụng niệm
-Trong thời đại Kamakura và Ashikaga (periods ), khoăng 1250 Công Nguyên , Ngài Kakushin đă đem theo cây Tiêu đến Trung Hoa trên con đường hoằng đạo, Shakuhachi đă tồn tại lâu hơn cây Hitoyogiri trong Phật giáo ở vùng Nam Trung Hoa.
- Thời cổ đại Trung Hoa , cách đo khác và ngắn hơn thời đương đại , theo họ 1 shaku và 8 sun, trong cách đo nầy là bằng nhau tương đương chỉ có 1 shaku và 1 sun trong lối đo cũa Nhật Bổn thời bây giờ .Tuy nhiên , trong thời gian của Đại Đức Kakushin , cách đo đếm của người Trung Hoa gần như giống với cách đo của Nhật Bổn ngày nay,.1 shaku và 8 sun tương đương khoăng 54.5 centimeters .
Chiều dài nầy là chiều dài của cây động tiêu Nhật Bổn Shakuhachi ngày nay
Cây ĐộngTiêu Shakuhachi
Cây Động Tiêu Trung Quốc và cây Shakuhachi
- Cây Động Tiêu Shakuhachi được Ngài Kakushin mang theo trên đường du hoằng ,dùng để truyền bá giáo phái của ḿnh. Fuke ( một nhánh tu thiền )(đi du hoằng đạo pháp)đă dùng Shakuhachi tấu và trở thành một biểu tượng gọi là Komuso.Và trên con đường du hoằng, các vị tăng lữ đă dùng cây Tiêu như vũ khí pḥng thân ,tự vệ ,cho nên cây Tiêu đă được làm bằng loại trúc rất cứng , dầy với nhiều mắt mấu tre gần , giống như 1hợp chất cứng,để có thể đập mạnh , va chạm .Tương phản lại với cây Hitoyogiri , chỉ làm bằng tre một mấu
- Âm nhạc của Shakuhachi du nhập qua Trung Hoa bởi Ngài Kakushin ,là một thể loại nhạc cao quí của Nhật Bổn được gọi Koden-Kyoku , một thể loại sáng tác theo phong cách xưa,.Trong khi đó , thể nhạc nỗi tiếng là Shinkyorei , mang 3 tính cách của Trung Hoa ,mang biểu tượng “Chân thật- Bầu trời – Chuông “ được Changpai sáng tác ,một nhà soạn nhạc thời nhà Đường với ḷng sự tôn kính phái Fuke. Sáng tác mang ư nghĩa của âm thanh huyền dịu của chuông chùa vang vang đến trong tâm thức ông trong không gian
-Những bậc thầy âm nhạc trong nghệ thuật tấu Tiêu Hitoyogiri được gọi là Sosa trong những năm cuối triều đại Ashikaga (1335-1573 ). Theo như những biên sọan cũa các nghệ sĩ theo phong cách cổ truyền , th́ có sự cải tiến mới xuất hiện theo phong cách Omori- Sokun , một loại âm nhạc đương thời của Oda-Nobunaga (,Generalissimo , người đă lật đỗ vương triều Ashikaga Shogunate). Mặt khác , triều đại Sokun , tiêu Hitoyogiri được cải cách tiến bộ một cách phi thường không những về kỷ thuật mà c̣n về phương diện sáng tác .Kỷ thuật của ông ảnh hưởng âm nhạc Komuso rất nhiều , cho nên sau nầy cũng tác động đến lối sáng tác nhạc cho Tiêu Shakuhachi
- Trong thời Vương triều Tokugawa ( Tokugawa period ) những nghệ sĩ tấu thể nhạc Komuso đă được cho một ân điển đặc biệt là với kết quả của sự phát triển nghệ thuật âm nhạc của Tiêu Shakuhachi đă có phong cách tấu rất thoải mái, thưởng thức và rất thành công trong khi đó Tiêu Hittoyogiri lại từ từ suy sụp. Giữa thời kỳ của triều đại Tokugawa , Shakuhachi phát triển cực điểm với KinKo Kurosawa ,trường KinKo đă sáng tác thể loại 36 tấu khúc cho loai nhạc cụ nầy
-Vào thời điểm Phục Hưng (1868 ) , những ưu đăi đặc biệt cho Tiêu Shakuhachi trước kia được dành cho vào thời điểm thể loại Komuso đă bị tŕ hơan , và âm nhạc giành cho Shakuhachi đột nhiên giảm dần. Ngày nay, sự khôi phục lại nhờ vào nổ lực , phấn đấu lớn lao của Itcho Yoshida và Kodo Araki , người đă duy tŕ và ǵn giữ văn hóa cổ truyền tạị thủ đô ToKyo cho đến hết thời kỳ sa sút đó. Cuối cùng , những nghệ sĩ tấu Tiêu chú ư đến chiều hướng sáng tác mới từ thể nhạc cổ truyền của gaikyoku ( thể nhạc được sang tác thêm ) cho tam tấu vớI đàn shamisen và Koto ,cũng từ đó cho đến ngày nay Tiêu Shakuhachi không thể thiếu được trong giàn nhạc tam tấu
-Cho đến hết cuối thời
của Tokugawa (Tokugawa periode ),
Soetsu Kondo , một công dân của Nagasaki , người nghệ sĩ trước
tiên chơi nhạc cụ charamela (một loại
nhạc cụ giống Oboe của Trung Hoa) và sau chuyển
qua Shakuhachi. Trong những
năm cuối đời , ông đă cống hiến
nhiều sáng tác cho Shakuhachi tại Kyoto và Osaka . Ông là một
nghệ sĩ xuất sắc trong
nghệ thuật , ông có tác động và ảng hưởng
rông lớn ở Kansai , và trường âm
nhạc của ông đào tạo nhiều nghệ sĩ nỗi tiếng thủ Shakuhachi ,gần như và
hấu hết , bên cạnh đó Tozan Nakao , người thành lập ra trường
âm nhạc Tozan , cũng là
giáo sư nỗi danh âm
nhạc ở Kansai. Kinko và Tozan là 2 trường âm
nhạc nỗi tiếng giảng dạy cho bộ môn Tiêu Shakuhachi
Bài viết dựa theo tài
liệu Japanese music của Hisao Tanabe( Professor of Tokyo University
of Art, Musical Department) – nhà xuất bản Kokusai Bunka Shinkokai
–1959( The Society for International Cultural Relations)